NGƯỜI
TÌNH
Tác giả N G U Y
ỄN T R U N G D ŨN G
“Dù cho mưa, em xin theo anh
đến cuối cuộc đời. Dù cho mây
hay cho bão tố có kéo qua đây. Dù có gió, có gió lạnh đầy,
có tuyết bùn lầy, có lá buồn gày,
dù sao , dù sao đi nữa, em cũng yêu anh”.
Âm thanh câm lặng khi năm ngón tay Hoài
khựng lại trên những sợi dây đàn. Nhưng trong xóm ngõ vắng vẻ, âm
thanh đó hình như còn luẩn quẩn váng vất trong
khu sân nhà chật hẹp, dưới tàng lá của cây mít đeo quả như mẹ địu con.
Âm thanh muốn tan như khói trên ống khói
nhà bếp, muốn bay như chim soải cánh bay đi xa, thì khói vờn lượn trên
không trung tan không được, chim cánh cụt cất mình lên không nổi, nên âm hưởng
của tiếng đàn thùng do Hoài đánh, vẫn còn vang vang ở đâu ở đó trong xóm
ngõ của con hẻm, nhà của những người dân nghèo.
Mùa hạ
năm đó, Hoài nhớ đã ngồi ôm cây lục huyền cầm, hát bài tình khúc có những lời
của bản nhạc đó cho Thư nghe. Mỗi lần đến Quyến
chơi, người bạn của chàng và là anh của Thư, chẳng lần nào Thư không
nhắc Hoài ngồi đàn bản Niệm Khúc Cuối, nhạc và lời của Ngô Thụy Miên mà
Thư rất thích. Tại sao Thư thích bản
nhạc đó, Hoài thực ra không mấy bận tâm. Nhưng vì chiều ý Thư, Hoài đã không từ
chối nên dưới gốc cây mít trước sân nhà, Hoài đã ôm cây đàn, ngồi đánh. Những
lần như thế, Hoài nhận thấy Thư thường
im lặng chăm chú nghe, để hết tâm tư
tình cảm nhập vào âm thanh và lời của
bản nhạc.
Hoài nhớ
có lần ngồi đàn, Hoài nhìn Thư đã thắc
mắc hỏi:
“Ngoài
Niệm Khúc Cuối, chẳng lẽ không còn bài nào khác để Thư thích hay sao. Anh thấy
mỗi lần anh đến chơi, Thư vẫn chỉ
yêu cầu
anh đánh mãi
bài này là như thế nào vậy. Mà cái bài nhạc này nó nói về tình yêu của một người con gái yêu tha thiết một người
con trai, trong âm thầm lặng lẽ, trong
đeo đuổi hứa hẹn, nên dù thế nào đi nữa, người con gái đó
vẫn cứ xin đi theo cho đến
cuối cuộc đời. Sao lại phải mất
công tới độ như vậy được nhỉ”.
“Nói như
anh thì nói làm gì. Chưa yêu hay không
yêu ai, chuyện đó dĩ nhiên đơn giản là như vậy. Còn khi đã yêu một người nào
đó, thì có đi theo đến cuối cuộc đời cũng chỉ là một chuyện tất nhiên mà thôi”.
“Thế cô
bé đã yêu ai chưa”.
“Yêu ai
hả. Anh thử đoán xem em đã yêu ai được không”.
“Để coi
nào. Điểm mặt mấy ông
bạn của anh
Thư, anh thấy có Nghĩa, có Thoại, có Khiêm, có Ngạn, không biết cả bốn ông
ấy có ông nào Thư đã lọt
vào mắt của họ
không. Dứt khoát là bốn phải có một”.
“Trật
tuốt. Tất cả những người anh vừa kể, Thư chỉ mến mà không phải là yêu”.
“Vậy thì
ai đây nhỉ”.
“Ai. Còn
ai vào đây nữa. Chẳng lẽ anh lại chờ em phải nói rõ ra thì anh mới có thể hiểu
được hay sao. Vô tình và tàn nhẫn đến thế là cùng. Buồn thật”.
“Lạ. Có
gì đâu mà sao em lại nói là buồn. Nếu biết thế, anh đã chẳng thèm đoán có lẽ
lại hay hơn là đoán”.
“Thôi.
Anh uống cà phê để em pha cho anh một ly cà phê. Anh đưa cây đàn cho em mang
cất vào trong nhà. Em không muốn nghe nữa”.
Pha cà
phê và lấy cây đàn là cái cớ cho Thư đứng dậy. Bỏ vào nhà rồi, Thư ở trong đó
khá lâu không thấy ra nữa. Lúc mắt Hoài hướng về phía cửa sổ để nhìn,
chàng thấy Thư đang ngồi gục đầu xuống
mặt bàn. Chỉ đến lúc ấm nước đang sôi
réo, Hoài mới thấy Thư đứng dậy để pha cà phê. Chừng cà phê đã pha
xong, bấy giờ Hoài mới thấy
Thư từ trong nhà bước ra sân, một tay cầm cái ly, tay kia cầm cái hũ thủy tinh đựng đường. Thư đến bên Hoài ngồi, đặt cái ly cà phê và cái hũ
đựng đường xuống cái bàn nhỏ bằng gỗ để
cạnh Hoài. Chỉ thoáng nhìn, Hoài nhận ra trên má Thư còn hoen ngấn lệ.
“Em chưa
bỏ đường vào vì không biết anh thích uống đắng hay ngọt”.
“Việc đó
để anh lo. Có cà phê như thế này là quá tốt rồi”.
Miệng
nói, tay Hoài cầm cái
muỗng xúc đường, bỏ vào ly rồi
quậy. Ngụm đầu, Hoài cảm nhận thấy mùi cà phê đắng có lẫn vị mặn. Có phải vị
mặn đó là nước mắt Thư đã thực sự vô ý rớt vào hay đấy chỉ là sự cảm thấy do
tưởng tượng bởi khứu giác gây ra.
Từ những
ngày đó cho đến sau này, Hoài thỉnh thoảng vẫn ghé nhà Quyến anh của Thư chơi, nhưng Thư đã không
còn thích ngồi nghe Hoài gảy đàn nữa. Dù vậy, vẫn tới căn nhà của Quyến ở cuối
con đường xóm và mỗi lần như thế, bao giờ Hoài cũng lấy cây đàn “guitar” của
bạn ra ngồi ở cái ghế nơi sân trước nhà, dưới cây mít vào mùa mít đang thai
nghén quả, để uống cà phê, để
chuyện trò với bạn, và để hứng lên thì dạo một vài bài nhạc
tình miệng vừa nghêu ngao hát.
Năm Hoài
đỗ tú tài, miền Bắc khởi sự xâm nhập người và vũ khí theo ngả đường mòn của
những dẫy núi, theo ngả biên giới Lào và Campuchia để đưa quân vào
chiến trường miền Nam. Mặt trận đã diễn ra càng ngày càng khốc liệt ở 4
Vùng Chiến Thuật 2 và ngay cả Sàigòn
với những đêm
pháo kích gây kinh hoàng cho
dân chúng sống ở trong thành phố.
Vào thời
điểm đó, sau khi chế độ Ngô Đình
Diệm xụp đổ, quân đội Mỹ đã ồ ạt đổ vào
miền Nam để tham
dự các trận đánh. Chiến
tranh leo thang và chính thức bước vào giai đoạn quyết liệt cần
tăng cường và bổ sung quân
số cho các đơn vị ở bốn quân khu, lệnh Tổng Động Viên đã được ban hành để đáp ứng tình
hình đang ở mức độ chiến tranh càng ngày càng khốc liệt. Nhập ngũ, từ đó Hoài
đã xa thành phố và dĩ nhiên, việc năng lui tới nhà Quyến cũng
chẳng còn thường xuyên lui tới được. Sĩ quan đơn vị pháo, Hoài
về tiểu đoàn súng lớn bám sát mặt trận. Bên tai Hoài, những ngày hối hả bắn yểm trợ cho
quân bạn, chàng quá bận rộn với việc di chuyển những cỗ súng và tai nghe
những tiếng nổ rền của những trái
đạn bắn ra khỏi nòng. Mũi Hoài ám hơi
khói thuốc mỗi lần đầu đạn thoát đi, để lại mùi khét và bụi đất nơi đặt súng ám
vào buồng phổi, bám vào áo quần trận và làm ù tai chàng. Không phải chỉ có ban
ngày mới nã pháo, về đêm, nếu tình hình nguy ngập ở một nơi nào
đó, hễ có đơn vị bạn xin bắn yểm trợ, khẩu đội dưới quyền Hoài
điều động ngay lập tức được chàng ra lệnh cho khai
hỏa.
Những trái đạn nhắm
đúng tọa độ đã được chấm chính xác mục tiêu, thì những tay
xạ thủ thiện
nghệ ở đơn vị của Hoài, bắn đi thường ít khi sai trật.
Hành quân
bám sát mặt trận, Hoài chẳng còn bao nhiêu thì giờ rảnh rỗi để nhìn lại quá
khứ. Quá khứ của những đêm thả bộ trên đường phố dưới vầng trăng khuya, của
những ngày cùng bạn bè ngả
nghiêng ngồi uống
rượu trong những quán
rượu, của những chiều ngồi trên tầu nổi Mỹ Cảnh ở sông Sàigòn buông thả
con mắt
nhìn sang bên kia vùng đất Thủ Thiêm khi
trời đất đang từ từ nhá nhem tối. Cả Thư, cả bạn bè, cả
bố mẹ, cả Sàigòn, trực diện với
quân thù, thay vì nhớ, Hoài đã
chẳng còn nhớ, mà Hoài để hết thì giờ
bận tậm với những cỗ pháo và những người lính xạ thủ để theo dõi nghe khẩu lệnh từ máy phát
tuyến và để khai hỏa kịp thời theo yêu cầu
cấp kỳ của các đơn vị bạn.
Trong một
lần bị địch phản pháo, đùi bị một
mảnh đạn cứa
rách thịt bắp chân, Hoài được
trực thăng cấp cứu đưa ngay về quân y viện điều trị. Vết thương
không nguy hiểm đến tính mệnh.
Mảnh miễng của viên đạn chỉ chạm xương chưa đến nỗi gẫy. Dù vậy, Hoài vẫn bị
giữ lại ở viện để chờ rút chỉ khâu và để tập đi đứng bình thường. Nằm như thế,
đêm nếu nghe tiếng súng lớn ở đâu đó bắn đi, Hoài lại nôn nóng muốn
xin xuất viện để tái trở về đơn vị. Nhưng xuất viện mà chân Hoài đi lại chưa
được bình thường, Hoài dù có năn nỉ đến mấy cũng bị các vị y sĩ từ chối.
Người sĩ
quan nằm cùng phòng
Hoài có một cây “guitar”. Bị đạn
bắn gẫy hai ống xương cẳng, chân bị bó bột, nằm ở giường, anh ta ôm cây
đàn lặng lẽ gảy. Lại vẫn là Niệm Khúc Cuối với
những lời của những câu:
“Dù cho mưa, em theo anh đến cuối cuộc đời. Dù cho mây hay cho bão
tố có kéo qua đây. Dù có gió, có gió lạnh đầy, có tuyết bùn
lầy, có lá buồn gày, dù sao, dù sao đi nữa, em cũng yêu anh”.
Buổi xế
chiều, nhìn ra mé cửa sổ, nắng như vạt áo lụa mầu vàng heo
hắt sáng trên những mảng lá cây soan, nghe
tiếng đàn người
bạn lính khảy, Hoài
bỗng thấy nhớ về một điều mà lâu
rồi điều đó chàng đã quên đi. Quên có lẽ vì sống trong quân ngũ
công việc hối thúc với những quả đạn phải được
bắn đi cấp thời để những quả đạn
đó theo đườnhg bay rồi cắm đầu rớt xuống những đợt sóng biển người tấn
công của địch, quên đi để nhận biết hiện tại mình đang
sống ở đâu và phải làm những việc
gì. Bắn hối hả suốt những ngày đơn
vị Hoài giáp mặt với kẻ thù đã
chẳng để một kẽ hở thời gian có được một khoảng trống mà nghĩ về những gì mình muốn nghĩ. Nay thì khác. Nằm bệnh viện, ngày và giờ thả trôi
theo cây kim đồng hồ, có lúc Hoài cảm thấy mình không còn là mình nữa. Từ suy
nghĩ đến cách sống, con người của Hoài,
nhất cử
nhất động, bản thân Hoài đã hoàn toàn phải tùy thuộc vào sự quyết định và điều
khiển bởi tha nhân. Bất cứ việc gì dù lớn hay nhỏ, Hoài cũng cần
đến bàn tay của người khác giúp đỡ. Vì thế, chưa lúc nào Hoài lại thấy mình bi
quan yếm thế như
lúc này. Đấy mới chỉ là cái chân
bị thương tật, nếu tứ chi bị tàn
phế, có lẽ Hoài chẳng còn tha thiết muốn sống nữa. Nằm nghĩ quẩn quanh, Hoài thường suy tư dù biết rằng, điều tốt nhất chẳng bao giờ
nên suy tư như thế để làm gì.
Tiếng đàn
của anh bạn
nằm bên với những lời “dù sao, dù sao đi nữa, em cũng
yêu anh” hóa ra vào lúc này, Hoài mới nhận ra bản nhạc được sáng tác bởi tác giả là Ngô Thụy Miên, lại chính
là lời tỏ tình thầm kín của Thư gửi
đến cho chàng. Tình yêu của Thư đó, sao Hoài không biết mà trân trọng nhận
lấy, sao Hoài lại là kẻ
vô tình đứng ngoài vòng của cuộc
chơi. Thực ra, trong thâm tâm, Hoài
cũng để ý đến Thư, muốn được yêu
Thư như Thư đã yêu Hoài tha thiết và thầm
lặng.
Rồi
đến ngày Hoài được xuất viện. Hoài
từ giã nơi điều
trị của những thương bệnh binh,
nơi anh bạn hai chân đã bị cụt, để trở
về đơn vị. Với vết
thương ở đùi, Hoài hội đủ điều kiện để xin giải ngũ, nhưng Hoài đã không
xin giải ngũ trong trường hợp đó. Chiến tranh đã cuốn hút lấy Hoài khi Hoài
cảm thấy, Hoài phải
chứng tỏ cho
chính bản thân mình biết, Hoài không thể tách rời khỏi đời sống
quân đội lúc đất
nước còn cần đến sự đóng góp và
sự hi sinh của Hoài. Với những khẩu
pháo bắn tầm
xa, Hoài phải tiếp tục sát cánh với những người lính xạ
thủ, chỉ huy để ra lệnh cho họ khai
hỏa bắn đi
những quả
đạn rót xuống những tọa độ nơi mà các
đơn vị bạn gọi máy xin hỏa lực yểm trợ. Những quả đạn đó rời
khỏi nòng súng bay đi, Hoài có thể hình dung ra điểm rớt chính xác của chúng và cũng
có thể mường tượng được, ở đó, kẻ thù sẽ không toàn thây với sức ép
và mảnh miễng của nó văng ra. Ngược lại, những
lần bị phản pháo bởi hỏa tiễn của phe bên kia bắn về
đơn vị trú đóng của Hoài, sức công phá cũng ác liệt không thua kém gì những
trái đạn từ dàn súng của bọn Hoài bắn tới.
Nếu Mỹ
không rút khỏi Việt Nam, nếu Ban
Mê Thuột không bị thất thủ, nếu Pleiku không phải
triệt thoái, nếu một số Tướng lãnh, Sĩ quan Cao cấp trong
quân đội không bỏ đơn vị đào thoát
ra nước ngoài, thì tình hình chính
trị và quân sự đã
không đến nỗi tồi tệ, để từ đó rơi vào cảnh khủng hoảng và dẫn đến hậu quả miền Nam bị mất. Trong những
ngày đó, nơi đóng quân của đơn
vị trọng pháo của Hoài đã bị địch
uy hiếp vào lúc rạng Đông. Những khẩu súng hạ nòng bắn trực xạ vẫn không đủ khả
năng chặn đứng vòng lăn của những chiếc T 54 bò từ từ về tuyến phòng thủ. Những người lính còn
sống phải tìm cách rút lui để bảo
toàn sinh mạng. Những người đã chết đành bỏ lại trong
giao thông hào hoặc vắt thây trên
những hàng rào
dây kẽm gai
chung quanh doanh trại. Rút ra hướng sông tìm đường ra biển. Tầu hải quân vớt những người lính trong số đó có Hoài để chạy ra khơi. Từ đó, Hoài
đến đảo rồi đặt chân
lên đất Mỹ. Cuộc chiến đã tàn, người sĩ quan đơn vị pháo như
Hoài bây giờ đã trở thành một kẻ
lưu vong.
Một đêm,
từ quán ăn ở khu phố gần nhà, Hoài thả bước đi trên con đường đại
lộ rộng thênh thang và vắng vẻ.
Chính lúc đó, Hoài mới cảm thấy và nhìn
ra nỗi buồn và nỗi cô đơn của một người tha phương
sống trên đất nước
người. Bầu trời đen thẫm đầy
những chấm sao. Đêm khuya khoắt nên xe cộ ít qua lại. Nhưng ở mỗi ngã tư trục
lộ, hệ thống đèn lưu thông vẫn tự động
chớp tắt qua máy điện tử điều khiển. Vỉa hè, Hoài chợt thấy một cái vỏ lon bằng nhôm đang bị gió đùa
quét. Nó lăn qua
lăn lại hay bị quăng ném đầu đuôi lộn ngược. Còn có một
tờ báo cũng được gió tha đi bò dọc theo con đường phố. Khi có
cơn gió lớn, tờ báo bị hất tung lên cao rồi lại tự mình đáp xuống và trườn mình
trên mặt lộ. Ngoài những cái đó ra, tiếng
động do đế giầy của đôi giầy Hoài đi, nó quệt trên đất
phát ra
những âm thanh mà có lúc, Hoài cảm tưởng
như tiếng động đó là của một người lạ đang
bám gót đuổi theo sau chàng. Đi như
thế, Hoài thường mang ý
nghĩ để nhớ
đến Sàigòn. Thành phố đó với những con đường và nhà cửa san sát hai bên,
với những hàng cây trồng
dọc theo vỉa
hè, vào những đêm có
trăng sáng rực rỡ, Hoài đã lững thững đi bộ để trở về nhà khi rời bạn bè ở một
quán cà phê nằm trong một con hẻm. Sàigòn về khuya nhà phố đều đóng cửa. Đèn ở các tư gia đã tắt
không chừa một ngọn. Trừ những cột điện còn có ánh sáng của những ngọn đèn
đường.
Vẫn chỉ
là hồi tưởng về một quá khứ không thể có trong hiện tại. Khi
biết chắc chắn đây là một thành phố ở trên đất Mỹ, thì
cái hồi tưởng về một quá
khứ không thể có
trong hiện tại đó đã vỡ như một quả bong
bóng bằng sà phòng vừa bay lên
cao đã bị không khí bóp. Tìm lại thời gian
đã mất, tìm lại hình ảnh nơi chốn xưa đã lùi vào quá khứ, Hoài đã
có lần thực hiện một chuyến đi bằng phi cơ để đáp xuống Sàigòn.
Gặp Thư,
Thư cho biết Quyến đã tìm đường
vượt biên bằng đường biển rồi mất xác
ngoài biển khơi. Bây giờ hơn ba mươi năm, Thư đã lập gia đình và có ba đứa con.
Vẫn ngôi nhà cũ ở con hẻm cuối ngõ, vẫn
cây mít cành xum xuê lá đùm đề, cây mít thân đứng thẳng, nhánh quằn
xuống bởi sức nặng của những quả mít đeo lủng lẳng. Cây mít có những con kiến
vàng bụng ỏng và những cái chân lỏng
khỏng và dài. Kiến làm tổ ở lá. Tổ đó như tổ sâu kèn.
Thời gian đã làm nhan sắc Thư hao mòn tàn tạ. Da
hơi nhăn. Mắt hơi quầng. Hai má hóp. Vẻ đẹp tươi tắn trẻ
trung của một người con
gái thuở xa xưa đã phôi
pha theo năm tháng làm lụng cực
khổ. Cảnh sống khó khăn sau cuộc đổi đời, phần
nào đó đã đầy ải thân xác Thư, không hơn gì một con ngựa thồ chỉ biết
thồ hàng cho chủ qua những đoạn
đường gồ ghề khúc khửu gập ghềnh. Im
lặng ngồi nhìn nhau mãi rồi đến lúc Hoài cũng phải lên tiếng:
“Nom Thư
gây quá. Em có bệnh tật gì không”.
“Bệnh thì
không. Gày có lẽ do lao lực đấy thôi anh ạ. Hoàn cảnh của cuộc sống đẩy
đưa mà ra cả”.
Không
phải là lời nói để than vãn, Thư đáp lửng
lơ như thế rồi
lại
cười. Cái
cười héo hắt trên đôi môi khô của Thư chắc chắn không thể coi cái cười đó nó thể hiện một nỗi vui nào đó như một điều
Hoài mong đợi.
“Anh
hiểu. Nếu phải an ủi, anh biết không có lời nào đủ để an ủi nổi những gì Thư đã mất. Cái chết của người
anh, cái chết đó khó có gì để khỏa lấp nỗi buồn mà mình phải gánh chịu. Anh thực
tình không biết nói gì hơn”.
Một con
kiến vàng bỗng xẩy chân rớt xuống vai áo Thư. Hoài nói để Thư biết trên vai áo Thư có con kiến đó
thay vì chàng đưa bàn tay ra để gạt.
“Coi
chừng con kiến trên vai áo em”.
Chưa kịp
bắt con kiến thì con kiến đã nhanh chân bò vào lớp vải ở cổ cái áo Thư mặc. Bây
giờ chẳng còn làm gì hơn được là cách để
Hoài giúp Thư dùng ngón tay tóm nó. Vạch mép cổ áo của Thư, Hoài
đã thấy con kiến ở ngực của Thư. Bóp bẹp dí con kiến xong, Hoài ngồi trở lại
chỗ ngồi của mình. Thư bỗng hỏi:
“Anh bỏ
đánh đàn lâu rồi còn đánh nổi nữa không”.
“Đàn nổi.
Nhưng bây giờ còn đàn để làm gì”.
“Sao anh
lại nói vậy”.
“Anh cũng
không hiểu nữa”.
“Nếu em
thích, em muốn nghe anh đánh anh có đánh không?”.
Chẳng cần
đợi câu trả lời của Hoài, Thư lại tiếp:
“Bài
“Niệm Khúc Cuối”, đã lâu rồi em vẫn muốn được nghe”.
“Nghe làm
gì nữa hả Thư. Thời gian đã mất có bao giờ
người ta tìm lại được. Thực tế
bây giờ, em là người đàn bà đã có chồng và có con rồi”.
“Ra là vậy. Anh trước và sau vẫn là kẻ cố tình
bỏ chạy”.
“Thì đúng
là bỏ chạy. Lúc cần bỏ chạy thì phải bỏ chạy”.
“Còn em,
em không bỏ chạy. Lá thư ngày đó anh
viết cho em, anh tưởng em đã
bỏ đi và quên được rồi sao”.
“Lá thư
nào vậy”.
“Còn lá
thư nào nữa. Chính anh tự tay viết nay lại có thể dễ
dàng quên nó nhanh đến thế được hay sao”.
Thủ trong
túi từ bao giờ, Thư cầm cái phong bì trong đó có lá thư của
Hoài viết đưa cho
Hoài. Cầm lấy, mở đọc, đọc
xong, Hoài đưa trả cho Thư. Câu nói không được tự nhiên nhưng rõ ràng
dứt
khoát,
Hoài bảo:
“Em còn giữ
nó để làm gì. Giữ nó cũng chẳng thể níu kéo
ược những cái đã có mà thời gian chỉ là quá khứ. Mọi chuyện kể như đều
ngoài tầm tay và mất cả rồi”.
Thư chưa
kịp lên tiếng, thì ngay lúc đó,
trước cái cổng ra vào, có tiếng thắng kêu ken két và cái xe
đạp của Ngạn trờ tới trước mặt tiền nhà. Giắt xe vào sân, Ngạn khựng lại khi
nhận ra sự hiện diện của Hoài. Cả hai
chìa bàn tay ra bắt tay nhau, Hoài lên
tiếng hỏi trước:
“Cậu khỏe
chứ”.
Mặt
vẫn lạnh
như có băng đóng, Ngạn không một cử chỉ vồn vã nào và chỉ gật đầu khẽ đáp:
“Khỏe”.
Một chữ
cộc lốc cho là đã đủ, để rồi sau đó không cần thêm gì nữa. Thư
tự đông đứng dậy nhường cái ghế của mình đang ngồi cho chồng ngồi. Nhưng thay
vì ngồi, Ngạn vẫn đứng với cái lưng tựa vào thân cây mít. Đứng như thế mãi mới
có một câu nói:
“Cậu ở Mỹ
về hả”.
“Ừ. Mình
ở Mỹ về. Mấy chục năm rồi nay mới có dịp thấy lại Sàigòn”.
Nghe
giọng và cách nói của Ngạn vẫn có vẻ gượng gạo, Hoài biết trong
đầu óc Ngạn đang nghĩ về điều gì. Hình như Thư không thoải mái mấy về không khí
tẻ nhạt đang có giữa hai người. Nhưng
phải làm gì bây
giờ để xua tan đám mây đen đang u ám bầu trời, thì,
Thư biết chẳng có cách nào làm cho tan cơn mây đen được cả. Chính vì sự bất lực
của chính mình, Thư không
thể làm khác nên
đâm ra lúng
túng và cử chỉ đầy ngượng ngập
sượng sùng. Hoài tự biết mình phải làm sao để chấm dứt trường hợp này càng sớm
càng tốt, hơn là cứ để sự việc kéo dài thêm, nên cách tốt nhất không gì bằng là
quyết định đứng dậy để cáo từ ra về. Vẫn chỉ
là cái bắt tay lỏng lẻo của Ngạn
lúc gặp, và cái bắt tay lần này cũng không khác là bao nhiêu, Hoài cố
giữ thái độ lịch sự nên vừa bước ra phía cửa, vừa cười vừa
nói:
“Mình về”.
Ngạn làm ra
vẻ ngạc nhiên với đôi mắt nheo lại vừa hỏi:
“Sao lại
về. Vội thế”.
“À. Mình
phải đến quầy vé đổi vé về lại Mỹ cho chuyến bay ngày mai”.
Rời căn
nhà của Thư và Ngạn, Hoài vừa đi trên đường ngõ vừa cảm thấy ân hận. Vụng tính
và thiếu suy nghĩ, Hoài đã dối Ngạn nói
là để đi
đổi vé, thực sự, Hoài
không đi đổi vé mà đây chỉ là một cái cớ để tránh
mọi chuyện hiểu lầm và làm phiền phức cho Thư, dĩ nhiên là cho cả Ngạn.
Nhưng chính vì sự hấp tấp vội vàng đó, Hoài
nghĩ biết đâu lại là sự hiểu lầm
và ngộ nhận rất có thể có đối với Ngạn.
Cái quán
cóc ngoài vỉa hè đường, ngồi với ly cà phê và một điếu thuốc gắn trên
môi, Hoài có đủ thời gian suy nghĩ về điều đó và để lần bước chân của
thời gian tìm về một thời xa lơ xa lắc.
Lại đúng
cái băng nhạc chủ quán vừa mở, vẫn là bài
“Niệm Khúc Cuối” được hát với
tiếng hát của một cô ca sĩ, lại chỉ là những câu:
“Dù mai đây, anh đưa ai đi đến cuối cuộc đời. Dù cho anh, anh đang
tâm xé nát, xé nát tim em. Dù có ước, có ước ngàn đời, có trách một đời,
cũng đã muộn rồi. Tình ơi, dù sao đi nữa, em cũng yêu anh”.
N G U Y Ễ
N T R U N G D Ũ N G
No comments:
Post a Comment