Sunday, 1 March 2015

Người Tình



  


Truyện ngắn
NGƯỜI TÌNH
Tác giả N G U Y ỄN T R U N G D ŨN G

“Dù cho mưa, em xin theo anh  đến cuối  cuộc đời.  Dù cho mây  hay cho bão tố có kéo qua đây. Dù có gió, có gió lạnh  đầy,  có tuyết  bùn lầy, có lá buồn gày, dù sao , dù sao đi nữa, em cũng yêu anh”.

Âm  thanh câm lặng khi năm ngón tay Hoài khựng  lại trên những sợi  dây đàn. Nhưng trong xóm ngõ vắng vẻ, âm thanh đó hình như còn luẩn  quẩn váng vất  trong  khu sân nhà chật  hẹp, dưới  tàng lá của cây mít đeo quả như mẹ địu con. Âm thanh muốn tan như khói trên ống khói  nhà bếp, muốn bay như chim soải cánh bay đi xa, thì khói vờn lượn trên không trung tan không được, chim cánh cụt cất mình lên không nổi, nên âm hưởng của tiếng  đàn thùng do Hoài  đánh, vẫn còn vang vang ở đâu ở đó trong xóm ngõ của con hẻm, nhà của những người dân nghèo.


Mùa hạ năm đó, Hoài nhớ đã ngồi ôm cây lục huyền cầm, hát bài tình khúc có những lời của bản nhạc đó cho Thư nghe. Mỗi lần đến Quyến  chơi, người bạn của chàng và là anh của Thư, chẳng lần nào Thư không nhắc Hoài ngồi đàn bản Niệm Khúc Cuối, nhạc và lời của Ngô Thụy Miên mà Thư  rất thích. Tại sao Thư thích bản nhạc đó, Hoài thực ra không mấy bận tâm. Nhưng vì chiều ý Thư, Hoài đã không từ chối nên dưới gốc cây mít trước sân nhà, Hoài đã ôm cây đàn, ngồi đánh. Những lần như thế, Hoài nhận thấy Thư  thường im lặng chăm chú nghe, để  hết tâm tư tình cảm nhập vào âm thanh  và lời của bản nhạc.

Hoài nhớ có lần ngồi đàn, Hoài nhìn Thư  đã thắc mắc hỏi:

“Ngoài Niệm Khúc Cuối, chẳng lẽ không còn bài nào khác để Thư thích hay sao. Anh thấy mỗi lần anh đến chơi, Thư vẫn chỉ  yêu  cầu




anh đánh mãi bài này là như thế nào vậy. Mà cái bài nhạc này nó nói về tình yêu  của một người con gái yêu tha thiết một người con trai, trong âm thầm lặng lẽ, trong  đeo đuổi  hứa  hẹn, nên dù thế nào đi nữa, người con gái đó vẫn cứ  xin đi  theo cho đến  cuối cuộc đời. Sao  lại phải mất công tới độ như vậy được nhỉ”.
“Nói như anh thì nói làm  gì. Chưa yêu hay không yêu ai, chuyện đó dĩ nhiên đơn giản là như vậy. Còn khi đã yêu một người nào đó, thì có đi theo đến cuối cuộc đời cũng chỉ là một chuyện tất nhiên mà thôi”.
“Thế cô bé đã yêu ai chưa”.
“Yêu ai hả. Anh thử đoán xem em đã yêu ai được không”.
“Để coi nào. Điểm mặt  mấy  ông  bạn  của  anh  Thư, anh thấy có Nghĩa, có Thoại, có Khiêm, có Ngạn, không biết  cả bốn ông  ấy có ông nào Thư  đã  lọt  vào  mắt  của họ  không. Dứt khoát là bốn phải có một”.
“Trật tuốt. Tất cả những người anh vừa kể, Thư chỉ mến mà không phải là yêu”.
“Vậy thì ai đây nhỉ”.
“Ai. Còn ai vào đây nữa. Chẳng lẽ anh lại chờ em phải nói rõ ra thì anh mới có thể hiểu được hay sao. Vô tình và tàn nhẫn đến thế là cùng. Buồn thật”.
“Lạ. Có gì đâu mà sao em lại nói là buồn. Nếu biết thế, anh đã chẳng thèm đoán có lẽ lại hay hơn là đoán”.
“Thôi. Anh uống cà phê để em pha cho anh một ly cà phê. Anh đưa cây đàn cho em mang cất vào trong nhà. Em không muốn nghe nữa”.
Pha cà phê và lấy cây đàn là cái cớ cho Thư đứng dậy. Bỏ vào nhà rồi, Thư ở trong đó khá lâu không thấy ra nữa. Lúc mắt Hoài hướng về phía cửa sổ để nhìn, chàng  thấy Thư đang ngồi gục đầu xuống mặt bàn. Chỉ  đến lúc ấm nước đang sôi réo, Hoài mới thấy Thư đứng dậy để pha cà phê. Chừng cà phê đã  pha  xong, bấy  giờ Hoài mới thấy Thư  từ trong nhà bước  ra sân, một tay cầm cái ly, tay kia  cầm cái hũ thủy tinh đựng đường. Thư đến  bên Hoài ngồi, đặt cái ly cà phê và cái hũ đựng đường xuống cái bàn nhỏ bằng gỗ để  cạnh Hoài. Chỉ thoáng nhìn, Hoài nhận ra trên má Thư còn hoen ngấn lệ.
“Em chưa bỏ đường vào vì không biết anh thích uống đắng hay ngọt”.




“Việc đó để anh lo. Có cà phê như thế này là quá tốt rồi”.
Miệng nói, tay Hoài  cầm  cái  muỗng  xúc đường, bỏ vào ly rồi quậy. Ngụm đầu, Hoài cảm nhận thấy mùi cà phê đắng có lẫn vị mặn. Có phải vị mặn đó là nước mắt Thư đã thực sự vô ý rớt vào hay đấy chỉ là sự cảm thấy do tưởng tượng bởi khứu giác gây ra.

Từ những ngày đó cho đến sau này, Hoài thỉnh thoảng vẫn ghé nhà  Quyến anh của Thư chơi, nhưng Thư đã không còn thích ngồi nghe Hoài gảy đàn nữa. Dù vậy, vẫn tới căn nhà của Quyến ở cuối con đường xóm và mỗi lần như thế, bao giờ Hoài cũng lấy cây đàn “guitar” của bạn ra ngồi ở cái ghế nơi sân trước nhà, dưới cây mít vào mùa mít đang thai nghén quả, để  uống cà  phê, để  chuyện  trò với  bạn, và để hứng lên thì dạo một vài bài nhạc tình miệng vừa nghêu ngao hát.

Năm Hoài đỗ tú tài, miền Bắc khởi sự xâm nhập người và vũ khí theo ngả đường mòn của những dẫy núi, theo ngả biên giới Lào và Campuchia để đưa  quân vào  chiến trường miền Nam. Mặt trận đã diễn ra càng ngày càng khốc liệt ở 4 Vùng Chiến Thuật 2 và ngay cả  Sàigòn với  những  đêm  pháo kích  gây kinh  hoàng cho  dân chúng sống ở trong thành  phố. Vào  thời  điểm đó, sau khi chế  độ Ngô Đình Diệm xụp đổ, quân đội Mỹ đã ồ  ạt đổ  vào  miền  Nam để  tham  dự  các trận  đánh. Chiến  tranh leo thang và chính thức bước vào giai đoạn quyết  liệt cần  tăng  cường và bổ sung  quân  số cho các đơn vị ở bốn quân khu, lệnh Tổng  Động Viên đã được ban hành để đáp ứng tình hình đang ở mức độ chiến  tranh  càng ngày càng khốc liệt. Nhập ngũ, từ  đó Hoài  đã xa thành phố và dĩ nhiên, việc năng lui tới nhà Quyến  cũng  chẳng  còn thường  xuyên lui tới được. Sĩ quan đơn vị pháo, Hoài về tiểu đoàn súng  lớn  bám sát mặt trận. Bên  tai Hoài, những ngày hối hả bắn yểm trợ cho quân  bạn, chàng quá bận  rộn với việc di chuyển những cỗ súng và tai  nghe  những tiếng nổ rền  của những trái đạn bắn  ra khỏi nòng. Mũi Hoài ám hơi khói thuốc mỗi lần đầu đạn thoát đi, để lại mùi khét và bụi đất nơi đặt súng ám vào buồng phổi, bám vào áo quần trận và làm ù tai chàng. Không phải chỉ có ban ngày mới  nã pháo, về  đêm, nếu tình hình nguy ngập ở một nơi nào đó, hễ có đơn vị bạn xin bắn yểm trợ, khẩu đội dưới  quyền Hoài  điều  động  ngay lập tức được chàng ra lệnh cho khai 


hỏa. Những  trái  đạn nhắm  đúng tọa  độ  đã được chấm chính xác mục tiêu, thì những  tay  xạ  thủ  thiện  nghệ ở đơn vị của Hoài, bắn đi thường ít khi sai trật.

Hành quân bám sát mặt trận, Hoài chẳng còn bao nhiêu thì giờ rảnh rỗi để nhìn lại quá khứ. Quá khứ của những đêm thả bộ trên đường phố dưới vầng trăng khuya, của những ngày cùng  bạn  bè ngả  nghiêng  ngồi  uống  rượu  trong những  quán  rượu, của những chiều ngồi trên tầu nổi Mỹ Cảnh ở sông Sàigòn buông thả con  mắt  nhìn sang  bên kia vùng đất  Thủ Thiêm khi  trời  đất đang từ  từ nhá nhem tối. Cả Thư, cả bạn  bè, cả  bố mẹ, cả Sàigòn, trực  diện với quân  thù, thay vì nhớ, Hoài đã chẳng  còn nhớ, mà Hoài để hết thì giờ bận tậm với những cỗ pháo và những người lính xạ  thủ để theo dõi nghe khẩu lệnh từ máy phát tuyến và để khai hỏa kịp thời theo yêu cầu  cấp kỳ của các đơn vị bạn.

Trong một lần bị địch phản pháo, đùi bị một  mảnh  đạn  cứa  rách  thịt bắp chân, Hoài được trực thăng cấp cứu  đưa  ngay về quân y viện điều trị. Vết  thương  không  nguy hiểm đến tính mệnh. Mảnh miễng của viên đạn chỉ chạm xương chưa đến nỗi gẫy. Dù vậy, Hoài vẫn bị giữ lại ở viện để chờ rút chỉ khâu và để tập đi đứng bình thường. Nằm như thế, đêm nếu nghe  tiếng súng  lớn ở đâu đó bắn đi, Hoài lại nôn nóng muốn xin xuất viện để tái trở về đơn vị. Nhưng xuất viện mà chân Hoài đi lại chưa được bình thường, Hoài dù có năn nỉ đến mấy cũng bị các vị y sĩ từ chối.

Người    quan  nằm cùng  phòng  Hoài  có một  cây “guitar”. Bị  đạn  bắn gẫy hai ống xương cẳng, chân bị bó bột, nằm ở giường, anh ta ôm cây đàn lặng lẽ gảy. Lại vẫn là Niệm Khúc Cuối với  những lời của  những  câu:

“Dù cho  mưa, em  theo anh đến cuối cuộc đời. Dù cho mây hay  cho bão  tố có  kéo qua  đây. Dù có gió, có gió lạnh đầy, có tuyết bùn lầy, có lá buồn gày, dù sao, dù sao đi nữa, em cũng yêu anh”.

Buổi xế chiều, nhìn ra mé cửa sổ, nắng như vạt áo lụa mầu vàng  heo  hắt  sáng  trên những mảng lá cây  soan, nghe  tiếng  đàn người 




bạn lính  khảy, Hoài  bỗng thấy nhớ về một điều mà lâu  rồi điều  đó chàng đã  quên đi. Quên có lẽ vì sống trong quân ngũ công việc hối thúc với những quả đạn phải được  bắn đi cấp  thời để những quả đạn đó theo đườnhg bay rồi cắm đầu rớt xuống những đợt sóng biển  người tấn  công của địch, quên đi để nhận biết hiện tại  mình  đang  sống ở đâu và phải  làm những việc gì. Bắn hối hả suốt  những  ngày đơn  vị Hoài giáp  mặt với kẻ thù đã chẳng để một kẽ hở thời gian có được một khoảng trống mà nghĩ về  những gì mình muốn nghĩ. Nay  thì khác. Nằm bệnh viện, ngày và giờ thả trôi theo cây kim đồng hồ, có lúc Hoài cảm thấy mình không còn là mình nữa. Từ suy nghĩ đến cách sống, con người  của Hoài, nhất  cử  nhất động, bản thân Hoài đã hoàn toàn phải tùy thuộc vào sự quyết  định và điều  khiển bởi tha nhân. Bất  cứ  việc gì dù lớn hay nhỏ, Hoài cũng  cần  đến  bàn  tay của người khác giúp đỡ. Vì  thế, chưa lúc nào Hoài lại thấy  mình bi  quan yếm  thế  như  lúc  này. Đấy mới chỉ là cái  chân  bị  thương tật, nếu tứ chi bị tàn phế, có lẽ Hoài chẳng còn tha thiết muốn sống nữa. Nằm nghĩ quẩn  quanh, Hoài thường suy  tư dù biết rằng, điều tốt nhất chẳng bao giờ nên suy tư như thế để làm gì.

Tiếng  đàn  của  anh  bạn  nằm  bên  với những lời “dù sao, dù sao đi nữa, em cũng yêu anh” hóa ra vào lúc này, Hoài mới nhận ra bản  nhạc được sáng  tác bởi tác giả là Ngô Thụy Miên, lại chính là lời tỏ tình thầm  kín của Thư  gửi  đến cho chàng. Tình yêu của Thư đó, sao Hoài không biết mà trân  trọng nhận  lấy, sao Hoài  lại  là kẻ  vô tình đứng ngoài vòng của cuộc  chơi. Thực ra, trong thâm tâm, Hoài  cũng để  ý đến Thư, muốn được yêu Thư như Thư  đã yêu Hoài tha thiết và thầm lặng.

Rồi đến  ngày Hoài được xuất  viện. Hoài  từ  giã  nơi điều  trị  của những thương bệnh binh, nơi anh bạn hai chân đã bị cụt, để  trở về đơn  vị. Với  vết  thương ở đùi, Hoài hội đủ điều kiện để xin giải ngũ, nhưng Hoài đã không xin giải ngũ trong trường hợp đó. Chiến tranh đã cuốn hút lấy Hoài khi Hoài cảm  thấy, Hoài  phải  chứng  tỏ  cho  chính bản thân mình biết, Hoài không thể tách rời khỏi đời sống quân  đội lúc  đất  nước  còn cần đến sự đóng góp và sự hi sinh của Hoài. Với những khẩu  pháo  bắn  tầm  xa, Hoài phải tiếp tục sát cánh với những người  lính xạ  thủ, chỉ huy để ra lệnh cho họ khai  hỏa bắn đi


những quả đạn rót xuống những tọa  độ nơi mà các đơn vị bạn gọi máy xin  hỏa lực yểm  trợ. Những quả đạn  đó rời  khỏi  nòng  súng bay đi, Hoài có thể hình  dung ra điểm rớt chính xác của chúng và cũng có thể mường tượng được, ở đó, kẻ thù sẽ không toàn thây với sức  ép    mảnh  miễng của nó văng ra. Ngược  lại, những  lần  bị  phản pháo bởi hỏa tiễn của phe bên kia bắn về đơn vị trú đóng của Hoài, sức công phá cũng ác liệt không thua kém gì những trái đạn từ dàn súng của bọn Hoài bắn tới.

Nếu Mỹ không rút khỏi  Việt Nam, nếu  Ban    Thuột  không bị thất thủ, nếu Pleiku không phải triệt thoái, nếu một số Tướng lãnh, Sĩ quan Cao cấp  trong  quân đội không bỏ đơn  vị đào  thoát  ra nước  ngoài, thì tình  hình chính  trị và quân  sự  đã  không đến nỗi tồi tệ, để  từ  đó rơi vào cảnh khủng  hoảng và dẫn đến hậu  quả miền Nam bị mất. Trong  những  ngày  đó, nơi đóng  quân của đơn  vị trọng  pháo của Hoài đã bị địch uy hiếp vào lúc rạng Đông. Những khẩu súng hạ nòng bắn trực xạ vẫn không đủ khả năng chặn đứng vòng  lăn của  những chiếc T 54 bò từ  từ về tuyến phòng thủ. Những người lính còn sống phải tìm cách rút lui để bảo  toàn  sinh  mạng. Những người đã chết đành bỏ lại trong giao thông hào hoặc vắt  thây  trên  những  hàng  rào  dây  kẽm  gai  chung quanh doanh trại. Rút ra hướng sông tìm đường ra  biển. Tầu hải quân  vớt những người lính trong số đó có Hoài  để chạy ra khơi. Từ  đó, Hoài  đến  đảo rồi  đặt  chân lên đất Mỹ. Cuộc chiến đã tàn, người sĩ quan đơn  vị pháo như  Hoài bây  giờ đã trở thành một kẻ lưu vong.

Một đêm, từ quán ăn ở khu phố gần nhà, Hoài thả bước đi trên con  đường đại  lộ  rộng thênh thang và vắng vẻ. Chính lúc đó, Hoài mới cảm thấy và nhìn  ra  nỗi  buồn và nỗi cô đơn của một người tha phương sống  trên  đất nước  người. Bầu trời đen thẫm  đầy những chấm sao. Đêm khuya khoắt nên xe cộ ít qua lại. Nhưng ở mỗi ngã tư trục lộ, hệ thống đèn lưu thông vẫn tự động  chớp tắt qua máy điện tử điều khiển. Vỉa hè, Hoài chợt  thấy một cái vỏ lon bằng nhôm đang bị gió đùa quét. Nó  lăn  qua  lăn  lại hay  bị quăng ném đầu đuôi lộn ngược. Còn có một tờ báo cũng  được  gió tha đi bò dọc theo con đường phố. Khi có cơn gió lớn, tờ báo bị hất tung lên cao rồi lại tự mình đáp xuống và trườn mình trên mặt lộ. Ngoài những cái  đó  ra, tiếng  động do đế giầy của đôi giầy Hoài đi, nó quệt trên đất



phát ra những âm thanh mà có lúc, Hoài  cảm tưởng như tiếng động đó là của một  người  lạ đang  bám gót đuổi theo sau chàng. Đi như  thế, Hoài thường  mang  ý  nghĩ  để  nhớ  đến Sàigòn. Thành phố đó với những con đường và nhà cửa san sát hai bên, với những hàng  cây  trồng  dọc  theo  vỉa  hè, vào  những  đêm  có trăng sáng rực rỡ, Hoài đã lững thững đi bộ để trở về nhà khi rời bạn bè ở một quán cà phê nằm trong một con hẻm. Sàigòn về khuya  nhà phố đều đóng cửa. Đèn ở các tư gia đã tắt không chừa một ngọn. Trừ những cột điện còn có ánh sáng của những ngọn đèn đường.

Vẫn chỉ là hồi tưởng về một quá khứ không thể có trong hiện  tại. Khi  biết  chắc  chắn đây là một thành phố ở trên đất Mỹ, thì cái hồi  tưởng về một  quá  khứ  không  thể  có trong hiện  tại đó đã vỡ như một  quả bong  bóng bằng sà  phòng vừa bay lên cao đã bị không khí bóp. Tìm lại thời gian  đã  mất, tìm lại hình  ảnh nơi chốn xưa đã lùi vào quá khứ, Hoài đã có lần thực hiện một chuyến đi bằng phi cơ để đáp xuống  Sàigòn.

Gặp Thư, Thư cho biết Quyến đã  tìm đường vượt  biên bằng đường biển rồi mất xác ngoài biển khơi. Bây giờ hơn ba mươi năm, Thư đã lập gia đình và có ba đứa con. Vẫn ngôi  nhà  cũ ở con hẻm cuối  ngõ, vẫn  cây mít cành xum xuê lá đùm đề, cây mít thân đứng thẳng, nhánh quằn xuống bởi sức nặng của những quả mít đeo lủng lẳng. Cây mít có những con kiến vàng bụng ỏng và  những cái chân lỏng khỏng và dài. Kiến làm tổ ở lá. Tổ đó như tổ sâu kèn.

Thời  gian đã làm nhan  sắc Thư hao mòn tàn  tạ. Da  hơi  nhăn. Mắt  hơi quầng. Hai má hóp. Vẻ đẹp tươi  tắn trẻ  trung của  một  người con  gái  thuở xa  xưa đã phôi  pha theo năm tháng làm lụng cực  khổ. Cảnh sống khó  khăn sau cuộc đổi  đời, phần  nào đó  đã đầy ải  thân xác Thư, không hơn gì một  con ngựa thồ chỉ  biết  thồ  hàng cho chủ qua những đoạn đường gồ ghề khúc khửu gập ghềnh.  Im lặng ngồi nhìn nhau mãi rồi đến lúc Hoài cũng phải lên tiếng:
“Nom Thư gây quá. Em có bệnh tật gì không”.
“Bệnh  thì  không. Gày có lẽ do lao  lực  đấy thôi anh ạ. Hoàn cảnh của cuộc sống đẩy đưa mà ra cả”.
Không phải là lời nói để than vãn, Thư đáp lửng  lơ như  thế  rồi  lại



cười. Cái cười héo hắt trên đôi môi khô của Thư chắc chắn không thể coi cái cười đó  nó thể hiện một nỗi vui nào đó như một điều Hoài mong đợi.
“Anh hiểu. Nếu phải an ủi, anh biết không có lời nào đủ để an ủi  nổi những gì Thư đã mất. Cái chết của người anh, cái chết đó khó có gì để khỏa lấp nỗi buồn mà mình phải gánh chịu. Anh thực tình không biết nói gì hơn”.
Một con kiến vàng bỗng xẩy chân rớt xuống vai áo Thư. Hoài nói  để Thư biết trên vai áo Thư có con kiến đó thay vì chàng đưa bàn tay ra để gạt.
“Coi chừng con kiến trên vai áo em”.
Chưa kịp bắt con kiến thì con kiến đã nhanh chân bò vào lớp vải ở cổ cái áo Thư mặc. Bây giờ chẳng còn làm gì hơn được là cách để  Hoài giúp Thư  dùng  ngón tay tóm nó. Vạch mép cổ áo của Thư, Hoài đã thấy con kiến ở ngực của Thư. Bóp bẹp dí con kiến xong, Hoài ngồi trở lại chỗ ngồi của mình. Thư bỗng hỏi:
“Anh bỏ đánh đàn lâu rồi còn đánh nổi nữa không”.
“Đàn nổi. Nhưng bây giờ còn đàn để làm gì”.
“Sao anh lại nói vậy”.
“Anh cũng không hiểu nữa”. 
“Nếu em thích, em muốn nghe anh đánh anh có đánh không?”.
Chẳng cần đợi câu trả lời của Hoài, Thư lại tiếp:
“Bài “Niệm Khúc Cuối”, đã lâu rồi em vẫn muốn được nghe”.  
“Nghe làm gì nữa hả Thư. Thời gian đã mất có bao giờ  người  ta tìm lại được. Thực tế bây giờ, em là người đàn bà đã có chồng và có con rồi”.
 “Ra là vậy. Anh trước và sau vẫn là kẻ cố tình bỏ chạy”.
“Thì đúng là bỏ chạy. Lúc cần bỏ chạy thì phải bỏ chạy”.
“Còn em, em không bỏ chạy. Lá thư  ngày đó anh viết cho em, anh  tưởng  em  đã bỏ đi và quên được rồi sao”.
“Lá thư nào vậy”.
“Còn lá thư nào nữa. Chính anh tự tay viết nay lại có thể  dễ  dàng quên nó nhanh đến thế được hay sao”.

Thủ trong túi từ bao giờ, Thư cầm cái phong bì trong đó có lá thư  của  Hoài viết  đưa  cho  Hoài. Cầm  lấy, mở  đọc, đọc  xong, Hoài đưa trả cho Thư. Câu nói không được tự nhiên nhưng rõ ràng dứt



khoát, Hoài bảo:
“Em  còn giữ  nó để  làm  gì. Giữ nó cũng chẳng  thể níu kéo  ược những cái đã có mà thời gian chỉ là quá khứ. Mọi chuyện kể như đều ngoài tầm tay và mất cả rồi”.

Thư chưa kịp lên tiếng, thì ngay lúc  đó, trước  cái cổng  ra vào, có tiếng thắng kêu ken két và cái xe đạp của Ngạn trờ tới trước mặt tiền nhà. Giắt xe vào sân, Ngạn khựng lại khi nhận ra sự hiện  diện của Hoài. Cả hai chìa bàn  tay ra bắt tay nhau, Hoài lên tiếng hỏi trước:
“Cậu khỏe chứ”.
Mặt vẫn  lạnh  như có băng đóng, Ngạn  không  một cử chỉ vồn  vã nào và chỉ gật đầu khẽ đáp:
“Khỏe”.
Một chữ cộc  lốc cho là đã  đủ, để rồi sau đó không cần thêm gì nữa. Thư tự đông đứng dậy nhường cái ghế của mình đang ngồi cho chồng ngồi. Nhưng thay vì ngồi, Ngạn vẫn đứng với cái lưng tựa vào thân cây mít. Đứng như thế mãi mới có một câu nói:
“Cậu ở Mỹ về hả”.
“Ừ. Mình ở Mỹ về. Mấy chục năm rồi nay mới có dịp thấy lại Sàigòn”.

Nghe giọng và cách  nói  của Ngạn vẫn có vẻ gượng gạo, Hoài biết trong đầu óc Ngạn đang nghĩ về điều gì. Hình như Thư không thoải mái mấy về không khí tẻ nhạt đang có giữa hai  người. Nhưng phải  làm gì  bây  giờ  để  xua tan đám mây đen đang u ám bầu trời, thì, Thư biết chẳng có cách nào làm cho tan cơn mây đen được cả. Chính vì sự bất lực của chính  mình, Thư  không  thể  làm  khác nên  đâm  ra  lúng  túng  và cử chỉ đầy ngượng ngập sượng  sùng. Hoài tự biết mình phải  làm sao để chấm dứt trường hợp này càng sớm càng tốt, hơn là cứ để sự việc kéo dài thêm, nên cách tốt nhất không gì bằng là quyết định đứng dậy để cáo từ ra về. Vẫn chỉ  là cái bắt tay lỏng  lẻo của  Ngạn  lúc gặp, và cái bắt tay lần này cũng không khác là bao nhiêu, Hoài cố giữ thái  độ lịch  sự nên vừa bước ra phía cửa, vừa cười vừa nói:
“Mình về”.
Ngạn làm ra vẻ ngạc nhiên với đôi mắt nheo lại vừa hỏi:
“Sao lại về. Vội thế”.




“À. Mình phải đến quầy vé đổi vé về lại Mỹ cho chuyến bay ngày mai”.

Rời căn nhà của Thư và Ngạn, Hoài vừa đi trên đường ngõ vừa cảm thấy ân hận. Vụng tính và thiếu suy nghĩ, Hoài đã dối  Ngạn nói là để  đi  đổi  vé, thực  sự, Hoài  không đi đổi vé mà đây chỉ là một cái cớ để  tránh  mọi chuyện hiểu lầm và làm phiền phức cho Thư, dĩ nhiên là cho cả Ngạn. Nhưng chính vì sự hấp tấp vội  vàng  đó, Hoài  nghĩ  biết đâu lại là sự hiểu lầm và ngộ nhận rất có thể có đối với Ngạn.  
Cái quán cóc ngoài vỉa hè đường, ngồi với ly cà phê và một  điếu thuốc gắn  trên  môi, Hoài có đủ thời gian suy nghĩ về điều đó và để lần bước chân của thời gian tìm về một thời xa lơ xa lắc. 

Lại đúng cái băng nhạc chủ quán vừa mở, vẫn là bài  “Niệm Khúc Cuối”  được hát với tiếng hát của một cô ca sĩ, lại chỉ là những câu:

“Dù mai đây, anh đưa ai đi đến cuối cuộc đời. Dù cho anh, anh đang tâm xé nát, xé nát tim em. Dù có ước, có ước ngàn đời, có trách một  đời,  cũng đã  muộn  rồi. Tình ơi, dù sao đi nữa, em cũng yêu anh”. 

N G U Y Ễ N T R U N G D Ũ N G












                                                                      

No comments:

Post a Comment